Ngân hàng trung ương tạo tiền Tạo tiền

Ngân hàng trung ương

Bài báo: Ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương của một quốc gia là cơ quan thi hành chính sách tiền tệ. Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương thường gồm một trong ba mục tiêu sau đây hoặc kết hợp cả ba theo thứ tự ưu tiên khác nhau, tùy thuộc vào quốc gia hoặc khu vực: Ổn định giá cả, tức là đặt mục tiêu lạm phát; tạo điều kiện thuận lợi cho tối đa hóa việc làm trong nền kinh tế; đảm bảo lãi suất vừa phải, dài hạn.

Ngân hàng trung ương là cơ quan của chính phủ và cung cấp cho chính phủ một loạt các dịch vụ ở mức độ vận hành như quản lý tài khoản Kho bạc nhà nước và cũng hoạt động như một tổ chức tài chính (ví dụ: tổ chức các cuộc đấu giá), đại lý thanh toán và cơ quan đăng ký trái phiếu.[3] Ngân hàng trung ương không thể mất khả năng thanh toán nợ. Tuy nhiên, ngân hàng trung ương có thể mất khả năng thanh toán đối với các khoản nợ phải trả bằng ngoại tệ.[4]

Thực tế, các ngân hàng trung ương hoạt động ở mọi quốc gia trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ. Có một số nhóm quốc gia thông qua thỏa thuận thành lập một tổ chức độc lập hoạt động như ngân hàng trung ương của họ, chẳng hạn là tổ chức các quốc gia Trung Phi, tất cả đều có chung ngân hàng trung ương là Ngân hàng các quốc gia Trung Phi ; hoặc các liên minh tiền tệ như Khu vực đồng euro, qua đó các quốc gia vẫn giữ ngân hàng trung ương của họ nhưng phải tuân theo các chính sách của tổ chức trung ương là Ngân hàng Trung ương Châu Âu. Các tổ chức ngân hàng trung ương thường độc lập với cơ quan hành pháp chính phủ.[1]

Các hoạt động của ngân hàng trung ương ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất, thông qua việc kiểm soát lãi suất cố định, và ảnh hưởng gián tiếp đến giá cổ phiếu, sự giàu có của nền kinh tế và tỷ giá hối đoái của tiền định danh trong nước.[5] Những người theo trường phái trọng tiền và một số người Áo cho rằng ngân hàng trung ương nên kiểm soát nguồn cung tiền thông qua các hoạt động tiền tệ của mình. Những người chỉ trích quan điểm chính thống cho rằng các hoạt động của ngân hàng trung ương có thể ảnh hưởng nhưng không kiểm soát được cung tiền.

Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở (OMOs) liên quan đến việc ngân hàng trung ương mua và bán chứng khoán trên thị trường mở. OMOs về cơ bản là trao đổi một loại tài sản tài chính với loại khác; khi ngân hàng trung ương mua trái phiếu được phát hành bởi các ngân hàng hoặc khu vực tư nhân, lượng tiền dự trữ trong các ngân hàng sẽ tăng lên trong khi trái phiếu của các ngân hàng hoặc công chúng giảm. Các nghiệp vụ tạm thời thường được sử dụng để giải quyết các nhu cầu dự trữ được xem là nhất thời xảy ra, trong khi các nghiệp vụ vĩnh viễn điều tiết các yếu tố dài hạn thúc đẩy việc mở rộng bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương; yếu tố chính như thế thường là xu hướng tăng cung tiền trong nền kinh tế. Trong số các hoạt động tạm thời, nghiệp vụ thị trường mở là các thỏa thuận mua lại (repos) hoặc các giao dịch mua ngược lại, trong khi các nghiệp vụ vĩnh viễn liên quan đến việc mua hoặc bán chứng khoán dứt khoát. Mỗi một hoạt động trên thị trường mở do ngân hàng trung ương thực hiện đều ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán của nó.[6] Each open-market operation by the central bank affects its balance sheet.[6]

Chính sách tiền tệ

Bài báo: Chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là quá trình mà cơ quan tiền tệ của một đất nước, thường là ngân hàng trung ương (hoặc hội đồng tiền tệ), quản lý mức lãi suất ngắn hạn và ảnh hưởng đến tính khả dụng và chi phí của tín dụng trong nền kinh tế,[5] cũng như toàn bộ hoạt động kinh tế.[7]

Các ngân hàng trung ương thường thi hành chính sách tiền tệ thông qua các nghiệp vụ thị trường mở. Việc cho vay để tăng lượng tiền dự trữ trong ngân hàng được gọi là "nới lỏng tiền tệ". Một quá trình nới lỏng tiền tệ đặc biệt được gọi là "nới lỏng định lượng", với mục đích kích thích nền kinh tế bằng cách tăng thanh khoản và thúc đẩy hoạt động cho vay của ngân hàng.

Tiền mặt

Ngân hàng trung ương hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác (chẳng hạn như bộ tài chính), thường được trao quyền để tạo ra loại tiền mặt mới, là tiền dưới dạng giấy và tiền xu, để đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của các ngân hàng thương mại và thay thế cho tiền bị rách nát, hư hỏng.[8] Chính vì điều đó, quá trình này không làm tăng cung tiền; thuật ngữ "in tiền [mới]" được xem là không chính xác.[1]

Trong các nền kinh tế hiện đại, nguồn tiền mở rộng dưới dạng tiền mặt tương đối ít.